Chùa Pháp Bảo | Sư Bửu Hiền
| Khóa học
| Kênh Youtube
| Tài liệu |
---|---|---|---|---|
![]() Tứ Niệm XứTỨ NIỆM XỨ
II. Con đường hạnh phúc Con đường hạnh phúc là con đường “ekāyana magga”. Ekāyana magga: con đường độc đạo hay con đường trực hướng. Ekāyana magga là con đường hay sự thực hành • Đem lại sự thanh tịnh cho chúng sanh, • thoát khỏi buồn rầu và sầu muộn, • chấm dứt khổ đau và thất vọng, • thành tựu chánh đạo và chứng ngộ Niết Bàn. • Đó là tứ niệm xứ. Sự thực hành cattāro satipaṭṭhāna hay tứ niệm xứ 1. sống quán thân trên thân 2. sống quán thọ trên các thọ 3. sống quán tâm trên tâm 4. sống quán pháp trên các pháp nhiệt tâm tỉnh giác tâm niệm để từ bỏ tham ái và sân hận ở đời * Kệ ngôn của Phạm Thiên Sahampati Ekāyanaṃ jātikhayantadassī, maggaṃ pajānāti hitānukampī; Etena maggena tariṃsu pubbe, tarissanti ye ca taranti oghaṃ. Thấy rõ con đường ekāyana magga, bậc với lòng bi mẫn đã đoạn tận sanh tử. Với con đường đó, các bậc thánh nhân đã vượt qua cơn nước lũ. Các bậc thánh nhân hiện nay và vị lai cũng vượt qua. 2. Các đối tượng thực hành tứ niệm xứ • Các vị Sa Di (người tập sự): phát sanh tuệ quán • Các vị Tỳ Kheo, bậc thánh nhân hữu học: hoàn thiện pháp hành • Các bậc thánh nhân A La Hán: sống viễn ly thân, thọ, tâm và pháp • Thiền tứ niệm xứ là hành xứ và lãnh vực của vị hành giả Phật giáo. 3. Lời di huấn tối hậu của Đức Thế Tôn • Hành thiền tứ niệm xứ chính là tuổi thọ của Phật giáo. • Kinh Mahāparinibbāna Sutta: “Hãy nương tựa nơi hải đảo của chính mình. Hãy tìm sự nương tựa nơi chính mình”. • Lời dạy trân quý bao hàm ý nghĩa là sự thực hành cattāro satipaṭṭhāna hay tứ niệm xứ. • Cattāro satipaṭṭhāna là sự tu tập và phát triển niệm hay sati. 4a. Nguyên tắc thực hành • Niệm hay sati là sự có mặt, sự hiện hữu của tâm thức ngay trong thời điểm hiện tại. • Sự hiện hữu ấy được thể hiện qua câu kinh: “Kāye kāyānupassī viharati”: Vị hành giả sống quán thân trên thân. • Kāyānupassī là quan sát hay quán xét thân thể một cách chi tiết. • Nghĩa là quan sát thật kỹ thân thể; và quan sát thân thể bằng nhiều cách khác nhau, từ nhiều góc độ khác nhau. • Kāyānupassī cũng được gọi là quán niệm về thân thể. Đây là pháp thiền định đặc biệt được gọi là niệm thân. 4b. Nguyên tắc thực hành * Niệm thân là quán niệm thân thể theo ý nghĩa: ▪ Thân thể là vô thường – aniccānupassī ▪ Thân thể là khổ não – dukkhānupassī ▪ Thân thể là bất tịnh – asubhānupassī ▪ Thân thể là vô ngã – anattānupassī 4c. Nội thân & ngoại thân • Quán thân trên nội thân: quán xét thân thể của chính mình • Quán thân trên ngoại thân: quán xét thân thể của người khác • Quán thân trên cả nội thân & ngoại thân: quán xét cả hai • Niệm thân = quán xét thân của mình + quán xét thân người khác 4d. Sự sanh khởi & hoại diệt • Quán sự sanh khởi trên thân • Quán sự hoại diệt trên thân • Quán sự sanh khởi & hoại diệt trên thân • Vị hành giả hướng tâm đến bản chất thay đổi liên tục của thân nầy. • Pháp quán thân trên thân đem đến sự trải nghiệm riêng của mỗi vị hành giả, chớ không phải là cách suy diễn trong tâm. • Hãy để cho thân thể tự diễn bày bản chất thật sự của nó. • Chúng ta chỉ là những vị hành giả quan sát một cách khách quan. 4d. Phương thức áp dụng chung Việc thực hành nhấn mạnh sự quan sát duy nhất một đối tượng. Đối tượng ấy chỉ là một trong bốn yếu tố: thân, thọ, tâm và pháp. Chỉ là sự quan sát hay quán niệm trên một đối tượng mà thôi, và tập trung hết năng lực cho sự thực hành ấy. Đối tượng được quan sát chỉ đơn thuần là các yếu tố khách quan. * Hành giả thực hành miên mật như vậy để duy trì niệm liên tục, và giúp cho ánh sáng trí huệ có thể phát sanh. 5. Sự kết hợp các thiện pháp • Sati hay niệm không hoạt động một cách riêng rẽ, độc lập. • Sati luôn kết hợp với ātāpī, nghĩa là nhiệt tâm, chuyên cần, cố gắng. • Sati liên kết với sampajañña, nghĩa là tỉnh giác hay sáng suốt biết rõ. • Sati cùng cộng tác với samāhitā ekaggacittā, nghĩa là định tâm, sự tập trung. • Hành thiền tứ niệm xứ nghĩa là phát triển một cách toàn diện giáo nghĩa bát chánh đạo. Niệm & tỉnh giác – Satisampajañña • Tỉnh giác là biết rõ những gì đang xảy ra. • Niệm và tỉnh giác thường đi chung với nhau, để chỉ cho sự thực tập ghi nhớ và biết rõ mọi sinh hoạt hằng ngày. • Niệm và tỉnh giác đối với sự thay đổi oai nghi, các hoạt động của cơ thể, sự sanh khởi và tan biến của các cảm thọ và suy nghĩ. Hành trạng của tam thế Chư Phật 1. Đoạn trừ năm triền cái. 2. An trú tâm trong tứ niệm xứ 3. Phát triển thất giác chi KINH SEDAKA SUTTA ◦ Attānaṃ rakkhanto paraṃ rakkhati, Paraṃ rakkhanto attānaṃ rakkhati. Bảo vệ chính mình là bảo vệ người khác, Bảo vệ người khác là bảo vệ chính mình. * Hãy đi lại trong hành xứ của mình ◦ Thiền tứ niệm xứ chính là trú xứ của người con Phật thuần thành. ◦ Là hành xứ, là lãnh địa của vị hành giả nhiệt tâm, chuyên cần. ◦ Hãy ở trong trú xứ của mình, hãy đi lại trong hành xứ của mình, hãy sinh hoạt trong lãnh địa của mình. ◦ Đừng đi ra khỏi chỗ ở của mình, rồi đi lạc vào lãnh địa của Ác ma (dục lạc ngũ trần). Pháp Cú Kinh, kệ ngôn 239 • Anupubbena medhāvī, thokaṃ thokaṃ khaṇe khaṇe, Kammāro rajatasseva, niddhame malamattano. • Từng chút và từng chút một, bậc thiện trí thanh lọc ô nhiễm trong nội tâm, giống như người thợ kim hoàn tẩy sạch mọi bợn nhơ của thỏi bạc. III. Kết luận • Tứ niệm xứ là lối đi của tổ tiên người con Phật. • Pháp thiền tứ niệm xứ là di sản tinh thần vô giá của Chư Phật, Chư Thánh Hiền Tăng. |